Tiến sĩ Hye-Jin Lee và Tiến sĩ Myung Hee Kang đã thực hiện một nghiên cứu và phát hiện ra rằng việc uống nước từ trường liên tục từ 2 tháng trở lên không chỉ làm giảm lượng đường trong máu và nồng độ huyết sắc tố glycated mà còn làm giảm tổn thương DNA của máu và gan ở chuột mắc bệnh tiểu đường do STZ.
Tinh hoa Y học Cổ truyền – Hội Nam Y Việt nam
Năm 2013, hai nhà nghiên cứu của Đại học Hannam (Hàn Quốc): Tiến sĩ Hye-Jin Lee và Tiến sĩ Myung Hee Kang đã thực hiện một nghiên cứu và phát hiện ra rằng việc uống nước từ trường hoàn nguyên liên tục từ 2 tháng trở lên không chỉ làm giảm lượng đường trong máu và nồng độ huyết sắc tố glycated mà còn làm giảm tổn thương DNA của máu và gan ở chuột mắc bệnh tiểu đường do STZ. Từ những kết quả trên, người ta cho rằng việc uống nước từ trường hoàn nguyên trong thời gian dài hơn 8 tuần có thể có lợi trong cả việc phòng ngừa và điều trị các biến chứng ở bệnh nhân tiểu đường. Kết quả nghiên cứu của họ đã được công bố trên Tạp chí Nghiên cứu và Thực hành Dinh dưỡng Hàn Quốc (NRP), số ra tháng 2/2013, với tựa đề “Ảnh hưởng của việc uống nước từ trường hoàn nguyên đối với đường huyết, tổn thương DNA của tế bào lympho, tình trạng chống oxy hóa và hồ sơ lipid ở chuột do STZ gây ra”. Bài báo này sau đó đã được đăng tải lại trên trang Thư Viện Quốc Gia Y Khoa Hoa Kỳ và nhiều tạp chí khoa học có uy tín khác trên thế giới.
Mục đích nghiên cứu
Theo các tác giả nước từ trường hoàn nguyên là nước hình lục giác thu được bằng cách cho nước đi qua nam châm vĩnh cửu được sản xuất đặc biệt có thể kích hoạt và ion hóa các phân tử nước để thay đổi cấu trúc của nó thành hình lục giác, giống như nước trong cơ thể chúng ta. Qua kinh nghiệm uống nước và các báo cáo khoa học, người ta đã biết rằng nước từ trường hoàn nguyên có hiệu quả đối với một số bệnh mãn tính bao gồm bệnh tiểu đường (do căng thẳng oxy hóa gây ra). Trong số các hiệu quả của nước từ trường hoàn nguyên, có báo cáo rằng nước từ trường hoàn nguyên làm tăng hoạt động của glutamate decarboxylase và giảm mảng bám răng. Một số nghiên cứu của Trung Quốc đã chỉ ra rằng nước từ trường hoàn nguyên có hiệu quả trong điều trị tiết niệu và làm tan sỏi thận….
Nhưng kết quả thí nghiệm khoa học hiếm khi được báo cáo. Do đó, hai nhà khoa học nói trên đã thực hiện nghiên cứu để điều tra tác động của nước từ trường hoàn nguyên được sử dụng trong một khoảng thời gian đối với lượng đường trong máu, tổn thương DNA của tế bào lympho, tình trạng chống oxy hóa và hồ sơ lipid ở chuột mắc bệnh tiểu đường do streptozotocin gây ra.
Phương pháp nghiên cứu
24 con chuột Sprague-Dawley đực, 4 tuần tuổi, được mua từ Central Lab, Animal Inc. (Hàn Quốc) và được nuôi trong phòng thí nghiệm động vật có kiểm soát nhiệt độ và độ ẩm tự động. Mỗi con được nhốt trong lồng với nước và thức ăn tự do trong 1 tuần để thích nghi trước khi thí nghiệm. Tám con được chỉ định vào nhóm đối chứng (C) và mười sáu con được chỉ định vào nhóm bị bệnh tiểu đường. Để gây bệnh tiểu đường, 50 mg/kg streptozotocin (STZ) hòa tan trong dung dịch muối NaCl 0,9% được tiêm qua tĩnh mạch đuôi. Sau 3-4 ngày, những con chuột có mức đường huyết lúc đói trên 200 mg/dl được chọn và phân thành hai nhóm: nhóm bệnh tiểu đường (6 con chuột, bị bệnh tiểu đường do STZ, DC) và nhóm bệnh tiểu đường được uống nước từ trường hoàn nguyên (5 con chuột).
Kết quả nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu cho thấy sau 4 tuần uống nước từ trường hoàn nguyên, lượng đường trong máu ở động vật được điều trị bằng STZ đã giảm đáng kể so với nhóm mắc bệnh tiểu đường (Hình 1). Mức độ glycated hemoglobin, phản ánh mức đường huyết trung bình trong thời gian dài, cũng giảm sau 8 tuần uống nước từ trường hoàn nguyên.
Ngoài ra khi bệnh tiểu đường phát triển, quá trình chuyển hóa lipid bị ảnh hưởng bất thường và tăng peroxit lipid và lipid máu quá mức. Trong tác dụng của nước từ trường hoàn nguyên đối với cấu hình lipid, mức độ chất béo trung tính trong máu đã giảm đáng kể ở nhóm được uống nước từ trường hoàn nguyên so với nhóm bệnh tiểu đường mà không được uống nước từ trường hoàn nguyên. Kết quả này có thể là một bằng chứng bổ sung cho thấy việc uống nước từ trường hoàn nguyên có thể được sử dụng trong phòng ngừa và điều trị các biến chứng tiểu đường, bên cạnh tác dụng hạ đường huyết ở bệnh tiểu đường.
Tóm lại từ những kết quả này, người ta cho rằng việc uống nước từ trường hoàn nguyên trong thời gian dài (hơn 8 tuần) có thể có lợi trong cả việc phòng ngừa và điều trị các biến chứng ở bệnh nhân tiểu đường.
Trước đó, năm 2010, nhóm các nhà nghiên cứu nói trên đã tiến hành một nghiên cứu để kiểm tra xem việc sử dụng nước từ trường hoàn nguyên có cấu trúc lục giác trong thời gian dài có thể cải thiện mức độ tổn thương DNA ở chuột được sử dụng DEN như một chất gây ung thư hay không? và liệu sự khác nhau có phụ thuộc vào thời gian sử dụng nước từ trường hoàn nguyên hay không?
Kết quả của nghiên cứu chop thấy nước từ trường hoàn nguyên có thể giúp ức chế sự tổn thương của DNA trong tế bào lympho do các chất gây ung thư từ bên ngoài gây ra. Báo cáo đã được đăng tải trên Tạp chí Dinh dưỡng và Sức khỏe ( J Nutr Health; JNH ), số ra ngày 31/12/2010, với tiêu đề: “Effect of the Magnetized Water Supplementation on Lymphocyte DNA Damage in Mice Treated with Diethylnitrosamine” (Tác dụng của việc bổ sung nước từ trường hoàn nguyên đối với tổn thương DNA của tế bào bạch huyết ở chuột được điều trị bằng Diethylnitrosamine)
Đây là những báo cáo đầu tiên chứng minh rằng nước từ trường hoàn nguyên có thể giúp hỗ trợ điều trị bệnh ung thư, tiểu đường. Chúng mở ra triển vọng cho các nghiên cứu tiếp theo về tác động của nước từ trường hoàn nguyên đối với bệnh ung thư, tiểu đường trên động vật và con người.
Thiết bị tạo nước từ trường hoàn nguyên MAG
Nguồn:
1 – Effect of the magnetized water supplementation on blood glucose, lymphocyte DNA damage, antioxidant status, and lipid profiles in STZ-induced rats
https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC3572224/#B23
2 – Effect of the Magnetized Water Supplementation on Lymphocyte DNA Damage in Mice Treated with Diethylnitrosamine (Tác dụng của việc bổ sung nước từ trường hoàn nguyên đối với tổn thương DNA của tế bào bạch huyết ở chuột được điều trị bằng Diethylnitrosamine)
https://synapse.koreamed.org/articles/1043853